Nhật Ký Tĩnh Tâm Đợt 1 - Sáng Ngày Thứ Tư

NHẬT KÝ TĨNH TÂM TU ĐOÀN NĂM 2019
Đợt 1: Anh Em Khấn Trọn
-------------------------------
Bài giảng tĩnh tâm ngày thứ ba: Buổi chiều
ĐẶC SỦNG TRONG ĐỜI TU
Suy niệm: 1Cor 12,1-11
“Đức Giê-su chạnh lòng thương với đám đông dân chúng ki thấy họ lầm than, bơ vơ như không người chăm dắt nên Người đã mời gọi các môn đệ và mọi người cộng tác vào để chia sẻ với người khác hầu làm thăng tiến đời sống nhân sinh (HP. Điều 2.Đặc sủng.1a) … Vì thế danh xưng “Bác Ái Xã Hội” muốn nói lên khát vọng và phương thế của những anh em muốn cộng tác với Đức Giê-su để qui tụ mọi người thành một đoàn dân duy nhất (HP.Điều 2#2b)… Từ đó Tu đoàn mới chọn châm ngôn sống là YÊU THƯƠNG và PHỤC VỤ để nhắc nhở mỗi anh em luôn tâm niệm yêu thương và phục vụ tha nhân như mình đã được Chúa yêu và phục vụ” (HP.2 #3b)
Trong tác phẩm: Đời tu hôm nay, Đặc sủng và Sứ mệnh (Religious Life, a Reflective Examination of its Charism and Mission for Today), nữ tu Le Loan đã phân tích rất hay và đầy đủ về từ Charism và Mission. Theo tác giả thì có lẽ thánh Phaolo là người đầu tiên đưa từ Charisma vào từ vựng tôn giáo với “sự đa dạng về ngữ nghĩa”, với ý nghĩa chung ban đầu là “ơn nhưng không”. Phaolo sử dụng từ Charisma ở số nhiều Charismata trong bối cảnh cộng đoàn. Đây là một đề tài được nói đến trong Kinh thánh, Giáo phụ, Thần học… và có liên quan đến đời sống của các Kito hữu và đặc biệt đến đời tu.
1. Charisma trong văn chương Phaolo: trong TƯ Charisma xuất hiện 17 lần (16 lần trong các tác phẩm của Phaolo và 1 lần trong Pheerro- 1Pr 4,10). Bỏ qua những tranh luận về văn chương và chú giải, ta có thể đồng ý với Enrique Nardoni cho rằng Phaolo đã dùng từ Charisma theo ngôn ngữ địa phương thời đại của ngài, Charisma = món quà (gốc từ Charis= ân sủng, charizesthai=sự quảng đại và eucharistein = tạ ơn). Từ đó ta có thể hiểu Charisma là “ân sủng được ban cách nhưng không”, hoặc “quà tặng ân sủng”. Các nghiên cứu Kinh Thánh cho thấy rằng Charisma trong Phaolo không được dùng như một thuật ngữ, nhưng với một ý nghĩa rất rộng. Charisma biểu hiện cho sự Cứu rỗi và sự sống đời đời (Rm 5,15-16;6,23); việc được cứu khỏi nguy cơ tử vong (2Cor 1,11) ơn đặc biệt được ban tặng cho các cá nhân vì sự thăng tiến của cộng đồng Kito hữu (Thân thể Chúa Kito) (1Cr 1,7; 7,7; 12,4.9.28.30.31; Rm 12,6; 1Tm 4,14; 2Tm 1,6), với một ý nghĩa chung là “ơn nhưng không” (ít liên quan đến Chúa Thánh Thần).
2. Charisma trong Truyền thống GH. Trong văn chương thần học các Giáo phụ có rất ít tài liệu liên quan đến thần học các Đặc sủng. Ý nghĩa của Charisma cũng tương tự như văn chương Phaolo: “một ân sủng nhưng không của Thiên Chúa”. Với thời gian, Charisma được liên kết với Chúa Thánh Thần với các hiện tượng ngây ngất như ơn chữa bệnh, nói tiên tri, và nói tiếng lạ. Thánh Justino tử đạo đã dùng từ Charismata, và sự đa dạng của Charismata: “người này được lãnh nhận ơn hiểu biết, người khác ơn khuyên bảo, người khác ơn sức mạnh, người khác ơn chữa bệnh, người khác nữa ơn tiên đoán, người khác nữa ơn giảng dạy, và người khác nữa ơn kính sợ Thiên Chúa” (Justino tử đạo, Dialogue with Trypho). Chúa Thánh Thần được trình bày như là “nguồn gốc của của tất cả Charismata” (Thánh Irene). Nói chung thời các giáo phụ ít quan tâm đến vấn đề thần học mà nhắm đến mục vụ, và đối phó với những thực tại phát sinh trong Giáo hội (Stephanu; Hunter).
3. Thế kỉ thứ VI-VII: Stephanu nhận định: “những cảm nghiệm về đời sống đặc sủng đã dần dần bị đóng khung và giới hạn vào những người sống đời đan tu”. Charismata chỉ được dành cho những người “đã chết cho thế gian”
4. Thế kỉ thứ XIII: Thánh Toma Aquino đã có suy tư thần học về đặc sủng. Thánh nhân không dùng từ Charismata trong các tác phẩm của mình, nhưng dùng cụm từ Gratia gratis data. Trong Summa Theologiae, thánh Toma phân biệt hai loại ân sủng: Gratia gratum faciens (ơn Thánh sủng) và Gratia gratis data (ơn một cách nhưng không). Serge-Thomas Bonino giải thích như sau: “Ơn thánh sủng là ơn làm cho các tín hứu được thông dự vào bản tính của Thiên Chúa…Nó mang họ đến suối nguồn của sự hiệp thông, đó chính là Thiên Chúa. Còn ơn được ban cách nhưng không – hay còn được gọi là đặc sủng – thì được ban cho một số người để làm cho họ có khả năng giúp những người khác đón nhận ơn thánh sủng… Như thế, đặc sủng nằm trong trật tự của ơn thánh sủng” (Charisms, Forms, and States of Life). Thánh Toma đã giải thích ơn được ban cách nhưng không như sau: “Ân sủng được ban cách nhưng không cho một người vượt quá khả năng tự nhiên, và vượt quá những công đức của người đó. Tuy nhiên, khi ân sủng này được ban cho một người, thì không phải chỉ để thánh hóa người đó, nhưng đúng hơn là để người đó có thể hợp tác trong việc nên thánh của người khác, vì thế ân sủng này không được gọi là ơn thánh hóa. Chính vì lí do này mà thánh Tông đồ đã nói (1Cr 12,7): “Những ơn Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người là vì lợi ích…của người khác” (Summa Theologica, I-II.q.111,a.1).
5. Cuối thế kỉ XVI –XVII: Charisma tái xuất hiện trong văn chương của Giáo hội, với ý nghĩa mà thánh Phaolo đã sử dụng “ân sủng được Thiên Chúa ban cách nhưng không”. Vào thời kì này có những tranh luận và bất đồng giữa Thần học Tin lành và Công giáo liên quan đến đặc sủng và cơ chế phẩm trật trong Giáo hội (GH Công giáo chú trọng đến phẩm trật hơn là đặc sủng).
6. CĐ Vatican II- Sự phát triển của “Charism”. Các văn kiện của CĐ sử dụng tiếng Latinh nên đã dùng từ Charisma, chuyển ngữ từ Hi lạp theo bản Vulgata, được sử dụng 14 lần. Các cuộc tranh luận quyết liệt đã xẩy ra giữa các nghị phụ về đặc sủng và phận vụ của chúng trong đời sống của GH. ĐHY Ruffini cho rằng đặc sủng là những ân sủng ngoại thường và kì diệu Thiên Chúa ban cho “một số tín hữu”, và kịch liệt phản đối quan điểm cho rằng đặc sủng được ban rộng rãi cho các tín hữu. Ngài còn khẳng định: “đặc sủng đã ngừng sau năm thứ nhất của GH” (J. C. Haughey), và phản đối việc dùng từ “Charisms”. và gợi ý dùng từ “Gifts”. Ở phe ngược lại, ĐHY Leon-Joseph Suenens cho rằng “đặc sủng không phải là ân sủng ngoại thường chỉ được ban cho một vài người trong cộng đồng Kito giáo; nhưng là ân sủng mà Chúa Thánh Thần ban một cách rộng rãi cho tất cả những ai lãnh nhận Bí tích Rửa tội- “tỏ mình nơi GH qua vô số những món quà tinh thần của người, món quà đó Kinh Thánh gọi là Pneumatika hay là Charismata…” Ngài dẫn chứng ân sủng ban cho các tín hữu trong các công việc mục vụ, xã hội và từ thiện. Ngài nhấn mạnh đến ân sủng của CTT ngay từ thời sơ khai cho đến ngày nay, ngay cả trong cơ cấu phẩm trật của GH. Cuối cùng thì lập trường của ĐHY Suenens được công nhận, và được thể hiện trong Lumen Gentium: “hơn nữa, cũng chính Thánh Thần ấy, không chỉ thánh hóa hướng dẫn Dân Thiên Chúa bằng các bí tích, các chức vụ, và trang điểm họ bằng cách nhân đức, nhưng Ngài còn ban phát các ân sủng đặc biệt cho mọi cấp bậc các tín hữu “phân chia các ân huệ cho mỗi người theo ý Ngài” (1Cr 12,11), khiến người lãnh nhận các ân sủng ấy có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển GH…” (LG, s.12).
Những quan điểm đương thời về Đặc sủng: các tác phẩm thần học đương đại tìm hiểu khái niệm đặc sủng dựa trên bốn khía cạnh. (1) Bản chất của Đặc sủng. (2) Mục đích của Đặc sủng. (3) Đặc sủng trong mối quan hệ với cơ cấu phẩm trật. (4) Sự phân định Đặc sủng. (1) Bản chất của Đặc sủng: Thiêng liêng, đặc biệt, và đa dạng. Đặc sủngThiêng liêng vì xuất phát từ Chúa Thánh Thần, vì thế Đặc sủng “không thể lẫn lộn với tài năng của con người và khả năng tự nhiên” (Sullivan). Tuy rằng Đặc sủng không phải khả năng tự nhiên, nhưng chúng có thể có tương quan chặt chẽ với nhau, có thể có “một sự cộng hưởng siêu việt”. Đặc sủng là “ân sủng đặc biệt”. Ân sủng được ban cho thông qua các Bí tích và các thừa tác của GH, còn Đặc sủng được ban cho bởi CTT “như Ngài muốn” (1Cr 12,11). Đặc sủng thì rất đa dạng và không thể tiên báo trước được. Đặc sủng không thể bị đồng hóa với tài năng tự nhiên, mặc dù các tài năng tự nhiên có thể xuất hiện trong các hoạt động của đặc sủng. Đặc sủng sẽ thêm vào khả năng tự nhiên của một người một khả năng mới; khả năng mới này sẽ phụ thuộc vào những nhu cầu các nhiệm vụ được ban cho. Có vẻ như là đặc sủng và tài năng tự nhiên không bao giờ bị phân cách nhưng có một sự “cộng hưởng siêu việt”, một cái gì đó mà không thể được coi như là bởi sức con người, nơi đặc sủng đang hoạt động. (2) Theo hiến chế Lumen Gentium, thì đặc sủng được ban cho các tín hữu với mục đích là cho họ “có đủ khả năng và sẵn lòng đảm nhận các công việc và nhiệm vụ khác nhau mưu ích cho việc canh tân, xây dựng và phát triển GH” – Đó là ba mục tiêu của đặc sủng. Ở đây Công Đồng đã hiểu đặc sủng theo nghĩa của Thánh Phaolo : “Ơn Chúa Thánh Thần được ban cho tất cả mọi người vì lợi ích chung” (1Cr 12,7). Có lẽ vì nghĩa này mà ta sử dụng từ Đoàn sủng (ơn ban cho một người để sinh lợi ích cho nhiều người). (3) Đặc sủng và cơ chế Phẩm trật trong GH: không có sự đối lập giữa cơ chế phẩm trật và đặc sủng. GH được hình thành, nuôi dưỡng và phát triển bởi cả hồng ân phẩm trật và hồng ân đặc sủng, cả hai phụ thuộc lẫn nhau, nếu không có thể xẩy ra hỗn loạn. (4) Phân định Đặc sủng: Theo Gaudium et Spes thì “toàn thể Dân Chúa, cả mục tử lẫn giáo dân, đều có nhiệm vụ phân định những dấu hiệu của thời đại”. Tuy nhiên theo Hiến chế Lumen Gentium thì phán quyết về tính xác thực của các đặc sủng thuộc về những người có trách nhiệm trong GH, tức là ĐGH và các GM. Tuy nhiên, nhiệm vụ của GH không phải là áp đặt quyền hành trên những đặc sủng, nhưng là để nhận biết và phân định chúng một cách chính xác, và khuyến khích sử dụng chúng một cách có hiệu quả.
Từ sau CĐ Vatican II, từ “Charism” ( = Đặc sủng, Đoàn sủng) được áp dụng nhiều trong đời tu với những cấp độ khác nhau:
1. Đặc sủng của Đời Tu: ngay trong CĐ Vatican II Đời Tu đã được nghiên cứu và bàn thảo nhiều, nhưng CĐ đã không đề cập một cách rõ ràng minh nhiên rằng Đời Tu là một đặc sủng. CĐ chỉ định nghĩa đơn giản là “một ơn huệ mà Thiên Chúa đã ban cho GH. Văn kiện Perfectae Caritatis không dùng từ “đặc sủng”, nhưng lại diễn tả nguồn gốc của Đời Tu: “Đời tu xuất phát từ sự linh hứng của Chúa Thánh Thần”. Các nhà chú giải và học giả về đời tu cho rằng các văn kiện có ý hiểu ngầm rằng Đời tu là một “đặc sủng” (=Donum) khi bàn về bản chất của đời sống độc thân; khi bàn về “các lời khuyên Phúc Âm”, CĐ cũng xem đó là đặc sủng được ban bởi Chúa Thánh Thần (Juan Lozano). Các văn kiện sau CĐ như Evangelica Testificatio đã bắt đầu dùng từ “đặc sủng” để nói về đời tu và căn tính của nó. Huấn thị Potissimum Institutioni nói về sự phát triển về đặc sủng của đời tu như sau: “Đặc sủng của đời sống tu trì trong một hội dòng là một ân huệ sống động, ân huệ này phải được đón nhận và sống trong những điều kiện, thường là mới mẻ”
2. Đặc sủng của vị Sáng lập: Tông huấn Evangelica Testificatio là văn kiện Giáo Hoàng đầu tiên dùng cụm từ “đặc sủng của vị sáng lập”. Tông huấn cổ võ việc canh tân theo đặc sủng của vị sáng lập, đôn đốc các tu sĩ phải hướng tâm hồn đón nhận chân lí và tình yêu Thiên Chúa theo đặc sủng của vị sáng lập dòng của họ, mà Thiên Chúa đã làm cho xuất hiện trong Giáo hội. Đây là một điểm khá mới làm sáng tỏ cách nhìn của CĐ Vatican II. CĐ chỉ ra nguyên tắc của sự canh tân: Tinh thần của vị sáng lập, ý định sống Tin Mừng của họ, và các gương mẫu thánh thiện của họ (LG 45; PC 2b). Văn kiện Mutuae Relationes triển khai cụm từ “đặc sủng của vị sáng lập” như là một “kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần”. các nhà thần học đời tu đã chú giải cụm từ này như là một “cảm nghiệm riêng biệt của các vị sáng lập”, từ đó nảy sinh ra “một phong cách riêng của sự nên thánh và việc tông đồ” (Jurado). Lozano cho rằng xuyên qua kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần, các vị sáng lập được ban một nguồn cảm hứng liên quan đến một vài sứ vụ và lời mời gọi sống theo một phong cách riêng.Ciardi giải thích một cách hình ảnh hơn: “(các vị sáng lập) xem sứ điệp Tin mừng mà họ được thu hút bởi Thánh Linh, như là “viên ngọc quí”, là “kho báu” được mặc khải cho họ một cách đặc biệt. Họ cảm thấy họ thấu hiểu nó và có thể khám phá nơi sâu thẳm của nó một sứ điệp mới và sứ điệp này sẽ được thực hiện trong một phương pháp mới, mà có lẽ chưa bao giờ xuất hiện trong GH” (Ciardi, The Charism of Founders and Foundresses). Cũng theo Ciardi, có bốn chiều kích liên quan đến đặc sủng của vị sáng lập: (1) “Chiều kích Thánh Linh” hay hành động của Chúa Thánh Thần. (2) Chiều kích “Kito – Tin mưng”Chúa Kito và Tin Mừng là mục tiêu và là trọng tâm của công việc mà Chúa Thánh Thần linh hứng. (3) “Chiều kích GH” mối liên kết giữa tầm nhìn vị sáng lập và nhu cầu của GH. (4) “Chiều kích hoa trái” là một yếu tố định tính của một dòng tu mới được khai sinh! Vita Consecrata lại thích dùng cụm từ “đặc sủng sáng lập” hơn là “đặc sủng của vị sáng lập”.
3. Đặc sủng của một Dòng Tu: Văn kiện Mutuae Relationes mô tả đặc sủng của vị sáng lập như là “một kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần được trao lại cho các môn đệ của họ để sống, để gìn giữ, bảo toàn và không ngừng phát triển trong sự hài hòa với các chi thể trong thân thể của Chúa Kito”. Nhưng làm thế nào có thể truyền thụ đặc sủng đó cho những thế hệ đến sau? Tuy rằng đặc sủng của vị sáng lập là ân huệ cá nhân, nhưng có những thành quả sâu rộng vươn ra xa khỏi cá nhân đó. Những người tiếp bước được truyền cảm hứng để đi theo một vị sáng lập, từng bước họ được thấm nhuần “một lập trường, một quan điểm được bắt nguồn hoặc được cảm hứng từ những suy nghĩ, hành động, và đời sống thánh thiện của vị sáng lập. Đây có thể nói đến một “Đặc sủng mang tính tập thể”. Có thể nói một người gia nhập vào một hội dòng thì đồng thời cũng tham gia vào cuộc mạo hiểm mà Chúa Thánh Thần đã linh hứng cho vị sáng lập. Bước đi của Đặc sủng của Dòng tu là vị sáng lập là người đầu tiên nhận đặc sủng, rồi hình thành và diễn giải cho các thành viên, và một khi được thiết lập và được GH công nhận, đặc sủng ấy được diễn tả cách cụ thể và viết thành Qui Luật, hoặc Hiến Pháp. Tuy nhiên đặc sủng này phải được bảo toàn sống động nơi các thành viên, chứ không phải chỉ ở qui luật hay tiểu sử của vị sáng lập. Như thế đây không phải là một hệ thống khép kín, mà là một năng động tập hợp và chuyển tải một cách sáng tạo từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đặc sủng này phải được sống một cách năng động và trung thành với nguồn gốc, nhưng đồng thời mở ra với những nhu cầu thời đại. Điều này đòi hỏi một sự phân định một cách nghiêm túc về đặc sủng của vị sáng lập trong quá khứ và tìm cách thích hợp nhất để sống đặc sủng trong hiện tại.
CÂU HỎI SUY TƯ, XÉT MÌNH VÀ CẦU NGUYỆN:
1. Tôi có nghĩ rằng ơn gọi của cá nhân mình là một đặc sủng mà Chúa Thánh Thần đã linh hứng cho mình không? Anh có thể viết lại hành trình ơn gọi của mình, và cảm tạ Chúa.
2. Tôi có nhận ra đặc sủng của đấng sáng lập là Đức Cha Phaolo qua cuộc sống và lí tưởng của Ngài không? Tôi đã sống các đặc sủng của Dòng như thế nào?
Lm. Phaolô Nguyễn Đình Vịnh.Ofm