1. Trang Chủ
  2. Chia Sẻ Lời Chúa
  3. Chia Sẻ Lời Chúa Của Nhiều Tác Giả
  4. LOẠT BÀI GIÓA LÝ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ VỀ THÁNH GIUSE (BÀI 4-6)

LOẠT BÀI GIÓA LÝ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ VỀ THÁNH GIUSE (BÀI 4-6)

356 12/01/2022
LOẠT BÀI GIÓA LÝ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ VỀ THÁNH GIUSE (BÀI 4-6)

Phaolô VI
Thứ Tư, 15 tháng 12 năm 2021

____________________________

Loạt Bài Giáo lý về Thánh Giuse:

Bài 4. Thánh Giuse người của sự thinh lặng

 

Anh chị em thân mến,

chào anh chị em buổi sáng!

 

Chúng ta tiếp tục suy tư về thánh Giuse. Sau khi đã trình bày về môi trường sống của ngài, vai trò của ngài trong lịch sử cứu độ, và trình bày về ngài như là người công chính và hôn phu của Mẹ Maria, hôm nay tôi muốn xem xét một khía cạnh quan trọng khác nơi con người ngài: đó là sự thinh lặng. Ngày nay, rất nhiều lần chúng ta cần sự thinh lặng. Thinh lặng rất quan trọng, tôi bị đánh động bởi một câu trong Sách Khôn ngoan, mà khi đọc nó tôi nghĩ về lễ Giáng sinh. Đó là: “Khi đêm chìm trong sự im lặng sâu thẳm nhất, thì lời của người đã xuống trần gian”. Trong khoảnh khắc im lặng nhất Thiên Chúa đã tự tỏ mình ra. Điều quan trọng là phải nghĩ về sự im lặng trong thời đại mà dường như nó không có nhiều giá trị lắm.

 

Các sách Phúc âm không tường thuật bất kỳ lời nào của thánh Giuse thành Nadarét. Ngài không nói lời nào. Điều này không có nghĩa là ngài là người lầm lì. Không! có một lý do sâu xa hơn. Với sự thinh lặng của mình, thánh Giuse xác nhận điều mà thánh Augustinô viết: “Theo thước đo mà Ngôi Lời – Ngôi Lời làm người – lớn lên trong chúng ta thì lời nói giảm đi”1. Theo thước đo mà Chúa Giêsu, đời sống thiêng liêng tăng lên, thì lời nói bớt đi. Chúng ta có thể nói rằng những người nói như vẹt bớt nói đi một tí. Chính thánh Gioan Tẩy Giả, là tiếng kêu trong hoang địa: “Hãy dọn đường cho Chúa” (Mt 3, 1), đã nói về Ngôi Lời: “Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3,30). Điều này có nghĩa là Người phải nói còn tôi phải im lặng. Qua sự thinh lặng của mình, thánh Giuse mời gọi chúng ta hãy dành chỗ cho sự Hiện diện của Ngôi Lời đã mặc lấy xác phàm, cho Chúa Giêsu.

 

Sự thinh lặng của thánh Giuse không phải là sự khuyết tật, không phải là sự lầm lì; đó là một sự im lặng đầy lắng nghe, một sự im lặng cần cù, một sự im lặng bộc lộ nội tâm cao cả của ngài. Thánh Gioan Thánh Giá nhận xét: “Chúa Cha đã nói một lời, và đó là Con của Người, và Lời này luôn luôn nói trong sự thinh lặng vĩnh cửu, và trong thinh lặng, Lời này phải được linh hồn lắng nghe”2.

 

Đức Thánh Cha nói tiếp: Chúa Giêsu đã được lớn lên trong “trường học” này, trong ngôi nhà ở Nadarét, với gương mẫu hàng ngày của Đức Maria và Thánh Giuse. Và không có gì ngạc nhiên khi chính Người đã tìm kiếm những khoảng thinh lặng trong những ngày của Người (x. Mt 14,23) và đã mời gọi các môn đệ hãy có một kinh nghiệm như thế: “Anh em hãy vào nơi vắng vẻ, nghỉ ngơi một lát” (Mc 6,31).

 

Thật tốt biết bao nếu mỗi người chúng ta, theo gương thánh Cả Giuse, có thể tìm lại  chiều kích chiêm niệm của cuộc sống, được mở rộng cho sự thinh lặng. Nhưng từ kinh nghiệm, chúng ta đều biết rằng điều đó không hề dễ dàng: sự im lặng làm chúng ta sợ hãi đôi chút, bởi vì nó đòi chúng ta nhìn sâu hơn vào bản thân và đối diện với phần chân thật nhất của chúng ta. Rất nhiều người sợ sự im lặng, họ phải nói, hoặc nghe, radio, tivi…, nhưng họ không thể chấp nhận sự thinh lặng vì họ sợ. Triết gia Pascal nhận xét rằng “tất cả những bất hạnh của con người đều xuất phát từ một sự thật duy nhất, đó là họ không thể yên lặng trong căn phòng riêng của mình” 3.

 

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy học nơi thánh Giuse cách vun trồng những khoảng không gian thinh lặng, nơi mà một Lời khác, là Chúa Giêsu, Ngôi Lời, có thể xuất hiện: đó là lời của Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong chúng ta, Đấng mang Chúa Giêsu. Không dễ dàng để nhận ra Tiếng nói đó, vốn rất hay bị lẫn lộn cùng với muôn ngàn tiếng lo lắng, cám dỗ, ham muốn và hy vọng có trong lòng chúng ta; nhưng nếu không có sự huấn luyện thực sự từ việc thực hành im lặng này, thì ngay cả lời nói của chúng ta cũng có thể là tồi tệ, gây hại. Thay vì làm cho sự thật tỏa sáng, nó có thể trở thành một vũ khí nguy hiểm. Thật vậy, lời nói của chúng ta có thể trở thành xu nịnh, khoác lác, dối trá, đâm sau lưng và vu khống. Đó là một sự thật, như Sách Huấn Ca đã nhắc nhở chúng ta, “cái lưỡi giết hại nhiều hơn gươm giáo” (28,18). Chúa Giêsu đã nói rõ: bất cứ ai nói xấu anh chị em mình, ai nói xấu người thân cận, là kẻ giết người (x. Mt 5,21-22). Giết người bằng lưỡi. Chúng ta không tin điều này nhưng đó là sự thật. Chúng ta hãy suy nghĩ một chút về những lần chúng ta giết người bằng lưỡi của mình, chúng ta sẽ thấy xấu hổ! Nhưng suy nghĩ về điều này sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều.

 

Sự khôn ngoan trong Kinh Thánh khẳng định rằng “Sống hay chết đều do cái lưỡi, ai yêu chuộng nó sẽ lãnh nhận hậu quả” (Cn 18,21). Và trong thư của mình, như chúng ta đã đọc lúc đầu, thánh Giacôbê khai triển chủ đề cổ xưa này về quyền lực, khía cạnh tích cực và tiêu cực, của lời nói với những ví dụ nổi bật: “Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng kiềm chế toàn thân… Cái lưỡi cũng vậy: nó là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn… Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa.  Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa” (3,2-10).

 

Đức Thánh Cha giải thích: Đây là lý do tại sao chúng ta phải học nơi thánh Giuse để trau dồi sự thinh lặng: không gian nội tâm trong ngày sống của chúng ta, trong đó chúng ta để cho Chúa Thánh Thần có cơ hội tái tạo chúng ta, an ủi và sửa chữa chúng ta. Tôi không bảo là hãy câm lặng. Không. Hãy thinh lặng. Nhưng mỗi người chúng ta hãy nhìn vào nội tâm, nhiều khi chúng ta đang làm một công việc và khi hoàn thành, ngay lập tức chúng ta tìm điện thoại di động để làm việc khác… chúng ta luôn như thế này. Và điều này không giúp ích được gì, điều này khiến chúng ta rơi vào tình trạng hời hợt. Chiều sâu của trái tim lớn lên cùng với sự thinh lặng, một sự thinh lặng không phải là câm lặng mà là khoảng trống cho sự khôn ngoan, suy tư và Thánh Thần. Chúng ta sợ những khoảnh khắc thinh lặng, đừng sợ! Nó sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều.

 

Và, điều thiện ích đối với trái tim của chúng ta cũng sẽ chữa lành cái lưỡi của chúng ta, lời nói của chúng ta và trên tất cả những lựa chọn của chúng ta. Trên thực tế, thánh Giuse đã kết hợp sự thinh lặng với hành động. Thánh nhân không nói, nhưng ngài đã hành động, và do đó thể hiện điều Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ của Người: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Thinh lặng, nói điều đúng, cắn lưỡi một chút đôi khi tốt cho bạn thay vì nói những điều vô nghĩa.

 

Chúng ta hãy kết thúc với lời kinh nguyện:

Lạy thánh Giuse, con người thinh lặng, trong Tin Mừng ngài đã không nói một lời nào, xin dạy chúng con đừng nói những lời vô ích,
để khám phá lại giá trị của những lời nói xây dựng, khuyến khích, an ủi và nâng đỡ. Xin gần gũi những người phải chịu đựng những lời nói làm tổn thương, như vu khống và đâm thọc sau lưng, và xin giúp chúng con luôn kết hợp lời nói với việc làm. Amen.

 

Nguồn: https://www.vaticannews.va/

_____________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến: Trong phần tiếp tục bài Giáo lý về Thánh Giuse, chúng ta coi Thánh Giuse là “người của sự thinh lặng”. Các sách Phúc âm không tường thuật lời nào của ông, nhưng chúng trình bày Giuse như một kiểu mẫu về việc chú ý lắng nghe lời Chúa và hành động theo lời đó. Thật vậy, sự im lặng của Giuse là dấu hiệu của một trái tim biết chiêm nghiệm, xác nhận nhận xét của Thánh Augustinô rằng, “khi lời Chúa gia tăng thì lời nói của con người không thành” (Bài giảng 288: 5). Sự khiêm nhường thầm lặng của Giuse dạy chúng ta dành chỗ trong tâm hồn mình cho Chúa Giêsu Kitô, và do đó nhận biết ý muốn của Cha đối với cuộc sống của chúng ta. Chúa Giêsu học được tầm quan trọng của sự im lặng từ gương của Thánh Giuse và Mẹ Maria, và lần lượt dạy các môn đồ của ngài tu dưỡng điều đó. Chúng ta cũng được kêu gọi thực hiện sự im lặng trong nội tâm và chăm chú lắng nghe lời Chúa, kẻo những lo lắng, cám dỗ và sợ hãi hàng ngày của chúng ta khiến lời nói của chúng ta lạc lối và gây tổn thương cho người khác. Mặc dù không dễ dàng, nhưng nuôi dưỡng sự im lặng chiêm nghiệm là một con đường chắc chắn dẫn đến sự phát triển về bản thân và tinh thần đích thực. Ước gì chúng ta học được từ gương thinh lặng của Thánh Giuse để Chúa tràn đầy tâm hồn chúng ta và hướng dẫn lời nói của chúng ta trong việc phục vụ lẽ thật của Ngài và trong tình bác ái đối với tất cả anh chị em của chúng ta.

 

Phaolô VI
Thứ Tư, 29 tháng 12 năm 2021

____________________________

Loạt Bài Giáo lý về Thánh Giuse:

Bài 5. Thánh Giuse, người di cư can đảm và bị bắt bớ

 

Anh chị em thân mến,

chào anh chị em buổi sáng!

 

Hôm nay, tôi muốn trình bầy với anh chị em Thánh Giuse như một di dân bị bách hại và can đảm. Thánh sử Matthêu mô tả về ngài như thế. Biến cố đặc thù trong cuộc đời của Chúa Giêsu cũng liên quan đến Thánh Giuse và Mẹ Maria, theo truyền thống, được gọi là “cuộc chạy trốn sang Ai Cập” (x. Mt 2:13-23). Gia đình Nadarét đã phải chịu nỗi nhục nhã ấy và trực tiếp trải qua sự bấp bênh, sợ hãi và đau đớn khi phải rời bỏ quê hương. Ngày nay, rất nhiều anh chị em của chúng ta vẫn đang bị buộc phải trải qua cùng những bất công và đau khổ như vậy. Nguyên nhân thì hầu như luôn luôn là sự cao ngạo và bạo lực của kẻ quyền thế. Đây cũng là trường hợp của Chúa Giêsu.

 

Vua Hêrôđê biết được từ các đạo sĩ về sự ra đời của “Vua dân Do Thái”, và tin này làm ông chấn động. Ông cảm thấy bất an, ông cảm thấy quyền lực của mình đang bị đe dọa. Vì vậy, ông ta tập hợp tất cả những người lãnh đạo của Giêrusalem lại để tìm ra nơi Chúa Giêsu sinh ra, và yêu cầu các đạo sĩ thông báo cho ông ta những chi tiết chính xác, để – ông ta nói một cách giả dối – ông ta cũng sẽ đến và thờ lạy Người. Nhưng khi nhận ra các đạo sĩ đã trở về theo hướng khác, ông ta đã lên một kế hoạch độc ác: giết tất cả những đứa trẻ dưới hai tuổi ở Bêlem, đó là khoảng thời gian, theo tính toán của các Đạo sĩ, trong đó Chúa Giêsu đã sinh ra.

 

Trong lúc đó, một thiên sứ ra lệnh cho Thánh Giuse: “Hãy trỗi dậy, đem con trẻ và mẹ em chạy sang Ai Cập, và ở đó cho đến khi ta nói cho ông hay; vì Hêrôđê sắp tìm con trẻ để tiêu diệt em” (Mt 2:13). Ngày nay, anh chị em hãy nghĩ đến nhiều người cũng cảm thấy bị thôi thúc ở trong lòng: “Hãy chạy trốn, hãy chạy trốn, bởi vì có nguy hiểm ở đây”. Kế hoạch của Hêrôđê gợi ta nhớ đến kế hoạch của Pharaô đã ném tất cả trẻ trai của dân Do Thái xuống sông Nile (x. Xh 1:22). Việc lánh nạn sang Ai Cập gợi nhớ toàn bộ lịch sử của Dân Do Thái bắt đầu với Ápraham, người cũng đã trú ngụ ở đó (xem St 12:10); với Giuse, con Giacóp, bị anh em mình bán (xem St 37:36) trước khi trở thành “người cai trị lãnh thổ” (xem St 41: 37-57); và với Môsê, người đã giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ của người Ai Cập (x. Xh 1:18).

 

Chuyến lánh nạn của Thánh Gia sang Ai Cập đã cứu Chúa Giêsu, nhưng tiếc là nó không ngăn cản được Hêrôđê thực hiện vụ thảm sát của ông ta. Do đó, chúng ta phải đối đầu với hai nhân cách đối lập nhau: một mặt là Vua Hêrôđê với sự hung dữ, mặt khác là Thánh Giuse với sự quan tâm và lòng can đảm. Vua Hêrôđê muốn bảo vệ quyền lực của mình, chính làn da của mình, bằng sự tàn nhẫn không nương tay, như được chứng thực bằng việc hành quyết một trong những người vợ, một số con cái của ông ta và hàng trăm đối thủ. Ông ta là một người tàn nhẫn: để giải quyết vấn đề, ông ta chỉ có một giải pháp: giết. Ông ta là biểu tượng của nhiều bạo chúa trong quá khứ và ngày nay. Và đối với chúng, đối với những bạo chúa này, người dân không đáng kể; quyền lực mới đáng kể, và nếu họ cần có chỗ cho quyền lực, họ sẽ tiêu diệt người dân. Và điều này cũng đang xảy ra hôm nay: chúng ta không cần nhìn vào lịch sử cổ thời, nó đang xảy ra hôm nay. Ông ta là người đã trở thành “sói” cho những người khác. Lịch sử đầy rẫy những nhân vật như thế, những người sống với nhiều nỗi sợ hãi của họ, cố gắng chinh phục chúng bằng cách thực thi quyền lực một cách chuyên quyền và thực hiện các hành động bạo lực vô nhân đạo. Nhưng chúng ta không nên nghĩ rằng chúng ta chỉ sống theo quan điểm của Hêrôđê khi chúng ta trở thành bạo chúa, không; thật vậy, đó là một thái độ mà tất cả chúng ta đều có thể sa vào, mỗi khi chúng ta cố gắng xua tan nỗi sợ hãi bằng sự cao ngạo, dù chỉ bằng lời nói, hoặc tạo ra các hành vi lạm dụng nho nhỏ nhằm hành hạ những người thân cận của chúng ta. Chúng ta cũng có trong lòng khả thể trở thành những Hêrôđê nho nhỏ.

 

Thánh Giuse đối lập với Hêrôđê: trước hết, ngài là “người công chính” (Mt 1:19), còn Hêrôđê là một người độc tài. Hơn nữa, ngài chứng tỏ ngài can đảm làm theo mệnh lệnh của Thiên thần. Người ta có thể hình dung ra những thăng trầm ngài phải đối diện trong cuộc hành trình lâu dài và nguy hiểm và những khó khăn liên quan đến việc ở lại một đất nước xa lạ, với một ngôn ngữ khác: rất nhiều khó khăn. Lòng can đảm của ngài cũng bộc lộ trong lúc ngài hồi hương, khi được Thiên Thần trấn an, ngài vượt qua nỗi sợ hãi có thể hiểu được của mình và cùng với Đức Maria và Chúa Giêsu định cư ở Nadarét (x. Mt 2:19-23). Hêrôđê và thánh Giuse là hai nhân vật đối lập nhau, phản ảnh hai bộ mặt muôn thuở của nhân loại. Một quan niệm sai lầm phổ biến là coi lòng can đảm là đức tính riêng của người anh hùng. Trong thực tế, cuộc sống hàng ngày của mỗi người đều đòi hỏi lòng can đảm. Cách sống của chúng ta – của anh chị em, của tôi, của mọi người: người ta không thể sống mà không có lòng can đảm, lòng can đảm để đối đầu với các khó khăn hàng ngày. Trong mọi thời đại và mọi nền văn hóa, chúng ta đều thấy những người đàn ông và đàn bà can đảm, những người, để nhất quán với các niềm tin của họ, đã vượt qua mọi khó khăn, và chịu đựng bất công, kết án và thậm chí cả cái chết nữa. Lòng can đảm đồng nghĩa với lòng dũng cảm, một đức tính cùng với sự công bằng, khôn ngoan và tiết độ là một phần của nhóm các nhân đức nhân bản vốn được gọi là “các nhân đức chính”.

 

Bài học mà Thánh Giuse để lại cho chúng ta hôm nay là: cuộc sống luôn có sẵn cho chúng ta những nghịch cảnh, điều này đúng, khi đứng trước chúng, chúng ta cũng có thể cảm thấy bị đe dọa và sợ hãi. Nhưng không phải bằng cách biểu lộ điều tồi tệ nhất của bản thân, như Hêrôđê, chúng ta có thể vượt qua những khoảnh khắc nhất định, nhưng bằng cách hành động giống như Thánh Giuse, vị thánh đã phản ứng chống nỗi sợ hãi bằng lòng can đảm tin cậy vào sự Quan phòng của Thiên Chúa. Hôm nay tôi nghĩ chúng ta cần một lời cầu nguyện cho tất cả những người di cư; những người di cư và tất cả những người bị bách hại, và tất cả những ai là nạn nhân của những nghịch cảnh bất lợi: chúng có thể là hoàn cảnh chính trị, lịch sử hoặc bản thân. Nhưng, chúng ta hãy nghĩ đến rất nhiều người là nạn nhân của các cuộc chiến tranh, những người muốn chạy trốn khỏi quê hương của họ nhưng không thể chạy trốn; chúng ta hãy nghĩ đến những người di cư đã lên đường để được tự do, rất nhiều người trong số họ đã kết thúc trên đường phố hoặc trên biển cả; Chúng ta hãy nghĩ đến Chúa Giêsu trong vòng tay của Thánh Giuse và Mẹ Maria, đang chạy trốn, và chúng ta hãy nhìn thấy nơi Người từng người trong số những người di cư của ngày hôm nay. Di cư ngày nay là một thực tại mà chúng ta không thể nhắm mắt. Đó là một tai tiếng xã hội của nhân loại.

 

Lạy Thánh Giuse, ngài là người đã trải qua sự đau khổ của những người phải chạy trốn ngài là người đã bị buộc phải chạy trốn để cứu mạng của những người thân yêu nhất của ngài, xin bảo vệ tất cả những người đang chạy trốn vì chiến tranh, hận thù, đói khát. Xin trợ giúp họ trong các khó khăn của họ, Xin củng xố họ trong hy vọng, và để họ tìm được sự chào đón và liên đới.

 

 

Xin hướng dẫn các bước đi của họ và mở rộng trái tim của những người có thể giúp họ. Amen.

Nguồn: http://vietcatholicnews.org/

_____________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến: Trong phần tiếp tục dạy giáo lý về Thánh Giuse, giờ đây chúng ta xem xét sự can đảm của Thánh Giuse khi đối mặt với sự bắt bớ. Giống như nhiều anh chị em của chúng ta ngày nay phải đối mặt với bất công hoặc bạo lực, Giuse và Maria buộc phải di cư khỏi quê hương của họ, để chạy trốn cơn thịnh nộ của Vua Hêrôđê. Bị các đạo sĩ lừa về vị trí chính xác nơi Chúa sinh ra đời, Hêrôđê tìm cách giết tất cả trẻ em nam ở Bethlehem từ hai tuổi trở xuống. Để đáp lại thông điệp của một thiên thần, Giuse đã can đảm đưa Thánh Gia vào cuộc hành trình đầy hiểm nguy đến Ai Cập. Khi họ trở về đất Israel, Giuse dẫn họ đến Galilê để lập gia đình ở Nazarét, an toàn trước sự đe dọa của kẻ kế vị Hêrốt. Trong khi Hêrôđê là hiện thân của sự tàn ác, kiêu ngạo và hung hăng, ngược lại, Giuse chỉ cho chúng ta cách đối phó với những thử thách và khó khăn của chính mình bằng tình yêu thương nhân đức, can đảm tin cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Khi nhớ lại lòng dũng cảm và tình yêu thương mà thánh Giuse đã thể hiện trong chuyến đi đến Ai Cập, chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả những ai, giống như Thánh Gia, thấy mình buộc phải rời bỏ quê hương, rằng họ sẽ được ban phước với lòng can đảm của Thánh Giuse.

 

 

Phaolô VI Thứ Tư, 5 tháng 1 năm 2022

____________________________

Loạt Bài Giáo lý về Thánh Giuse:

Bài 6. Thánh Giuse, cha nuôi của Chúa Giêsu

 


Anh chị em thân mến,

chào anh chị em buổi sáng!

 

Hôm nay chúng ta sẽ suy gẫm về Thánh Giuse, cha của Chúa Giêsu. Các thánh sử Mátthêu và Luca trình bày ngài như cha nuôi của Chúa Giêsu, chứ không phải là cha ruột của Người. Thánh Mátthêu chỉ rõ điều này, tránh dùng công thức “cha của”, được dùng trong gia phả cho tất cả tổ tiên của Chúa Giêsu; thay vào đó, ngài định nghĩa Thánh Giuse là “chồng của bà Maria, người đã sinh ra Chúa Giêsu, Đấng được gọi là Chúa Kitô” (1,16). Mặt khác, Thánh Luca khẳng định điều này bằng cách nói rằng ngài là cha “được cho là” của Chúa Giêsu (3,23), tức là xem ra ngài là cha của Người.

 

Để hiểu được mối liên hệ cha con được cho là hợp pháp của Thánh Giuse, cần phải nhớ rằng vào thời cổ xưa ở phương Đông, định chế nhận con nuôi rất phổ biến, hơn ngày nay. Người ta nghĩ đến trường hợp thông thường ở Do Thái về “luật Lêvi”, như được trình bày trong Đệ nhị luật: “Nếu anh em sống với nhau, mà một trong số họ chết mà không có con trai, thì vợ của người chết sẽ không được kết hôn ngoài gia đình với một người lạ; em trai của chồng sẽ đến với cô ấy, và lấy cô ấy làm vợ, và thực hiện nghĩa vụ của một người em chồng đối với cô ấy. Và con trai đầu lòng mà cô ấy cưu mang sẽ nối nghiệp tên người anh đã chết, hầu cho tên của người đó không bị xóa khỏi Israel”(25,5-6). Nói cách khác, cha của đứa trẻ này là em rể, nhưng người cha hợp pháp vẫn là người đã chết, người cho đứa trẻ mới sinh tất cả các quyền di sản. Mục đích của luật này gồm hai mặt: đảm bảo dòng dõi của những người đã qua đời và bảo tồn di sản. Với tư cách là cha chính thức của Chúa Giêsu, Thánh Giuse thực hiện quyền đặt tên cho con trai mình, thừa nhận cậu về mặt pháp lý. Về mặt pháp lý, ngài là cha, nhưng không phải về mặt sinh sản; ngài đã không sinh ra Người.

 

Thời xưa, tên là bản tóm tắt căn tính của một người. Thay đổi tên của mình có nghĩa là thay đổi chính mình, như trong trường hợp của Ápraham, tên mà Đức Chúa Trời đã đổi thành “Ápraham”, có nghĩa là “cha của nhiều người”, “vì”, Sách Sáng thế nói, ông sẽ là “cha của nhiều dân tộc ”(17,5). Điều tương tự cũng đã xảy ra với Giacóp, người sẽ được gọi là “Israel”, nghĩa là “người đấu tranh với Thiên Chúa”, vì ông đã vật nhau với Thiên Chúa để buộc Người ban phúc cho mình (xem St 32:29; 35:10).

 

Nhưng trên hết, đặt tên cho ai hoặc một điều gì đó có nghĩa là khẳng định quyền hạn của mình đối với những người hoặc vật được đặt tên, như Ađam đã làm khi đặt tên cho tất cả các loài vật (xem St 2: 19-20).

 

Thánh Giuse biết rằng, đối với con trai của bà Maria, một cái tên đã được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn – tên Giêsu được đặt cho Người bởi người cha thật của Người, là Thiên Chúa – “Giêsu”, có nghĩa là “Chúa cứu”; như Thiên Thần giải thích, “Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,21). Khía cạnh đặc biệt này của Thánh Giuse giờ đây cho phép chúng ta suy gẫm về tình phụ tử và tình mẫu tử. Và tôi tin điều này rất quan trọng: nghĩ về việc làm cha ngày nay. Bởi vì chúng ta đang sống trong một thời đại có tiếng là mồ côi, phải không? Thật là lạ: nền văn minh của chúng ta là một điều gì đó của trẻ mồ côi, và người ta cảm nhận được tình trạng mồ côi này. Xin Thánh Cả Giuse, người thay thế cho người cha thật là Thiên Chúa, giúp chúng ta hiểu cách giải quyết cảm thức mồ côi đang gây hại cho chúng ta ngày nay.

 

Đem một đứa trẻ vào đời không đủ để trở thành cha hoặc mẹ của đứa trẻ. “Những người cha không được sinh ra, mà được tạo ra. Một người đàn ông không trở thành một người cha chỉ đơn giản bằng cách đem một đứa trẻ vào đời, mà bằng cách nhận trách nhiệm chăm sóc đứa trẻ đó. Bất cứ khi nào một người đàn ông chịu nhận trách nhiệm về cuộc sống của người khác, thì cách nào đó, họ trở thành cha đối với người đó ”(Tông thư Patris corde). Tôi đặc biệt nghĩ đến tất cả những ai đang mở lòng đón nhận cuộc sống bằng cách nhận con nuôi, đây là một thái độ tốt đẹp và rộng lượng. Thánh Giuse cho chúng ta thấy rằng dây nối kết này không phải là thứ yếu; nó không phải là một hậu ý, không phải. Loại lựa chọn này là một trong những hình thức cao nhất của tình yêu, tình phụ tử và tình mẫu tử. Có bao nhiêu trẻ em trên thế giới đang đợi ai đó chăm sóc chúng! Và biết bao nhiêu cặp vợ chồng muốn làm cha, làm mẹ nhưng không thể thực hiện được vì lý do sinh học; hoặc, mặc dù đã có con nhưng họ muốn chia sẻ tình âu yếm gia đình với những người chưa có tình cảm này. Chúng ta không nên sợ chọn con đường nhận con nuôi, chấp nhận “rủi ro” khi chào đón trẻ em. Và ngày nay, với tình trạng mồ côi, có một sự ích kỷ nào đó. Có lần, tôi đã nói về mùa đông nhân khẩu hiện có ngày nay, trong đó chúng ta thấy rằng người ta không muốn có con, hoặc chỉ có một con và không muốn thêm nữa. Và rất nhiều cặp vợ chồng không có con vì họ không muốn, hoặc họ chỉ có một con – nhưng lại có đến hai con chó, hai con mèo… Đúng vậy, chó và mèo thay thế cho những đứa trẻ. Vâng, tôi hiểu điều đó thật buồn cười, nhưng đó là thực tại. Và sự bác bỏ tình phụ tử này làm chúng ta giảm thiểu, nó lấy đi nhân tính của chúng ta. Và theo cách này, nền văn minh trở nên già cỗi và không có tình người, vì nó làm mất đi sự phong phú của tình phụ tử và mẫu tử. Và quê hương của chúng ta chịu thiệt thòi, vì nó không có trẻ em, và, như người ta đã nói một cách hài hước, “và bây giờ ai sẽ trả tiền thuế để trả lương hưu cho tôi, nếu không có con cái?”: môt cách hài hước, nhưng đó là sự thật. Ai sẽ chăm sóc tôi? Tôi xin Thánh Giuse ân sủng để đánh thức các lương tâm suy nghĩ về điều này: về việc có con. Tình phụ tử và tình mẫu tử là lẽ viên mãn của đời người. Anh chị em hãy nghĩ về điều này. Đúng là, có tình phụ tử thiêng liêng của những người dâng mình cho Thiên Chúa, và tình mẫu tử thiêng liêng; nhưng những ai sống trên đời và lập gia đình, hãy nghĩ đến việc có con, trao ban sự sống mà chúng sẽ lãnh nhận từ anh chị em cho tương lai. Và ngoài ra, nếu anh chị em không thể có con, hãy nghĩ đến việc nhận con nuôi. Đó là một rủi ro, đúng thế: có con, một cách tự nhiên hay do nhận nuôi, luôn luôn là một rủi ro. Nhưng sẽ rủi ro hơn nếu không có chúng. Sẽ rủi ro hơn nếu bác bỏ tình phụ tử, hoặc bác bỏ tình mẫu tử, dù là thực chất hay thiêng liêng. Nhưng bác bỏ, một người đàn ông hay một người đàn bà không khai triển cảm thức làm cha, làm mẹ, họ đang thiếu một điều gì đó, một điều căn bản, một điều gì đó quan trọng. Anh chị em hãy suy nghĩ về điều này, xin làm ơn.

 

Tôi mong rằng các định chế sẽ luôn sẵn sàng giúp đỡ việc nhận con nuôi, bằng cách giám sát nghiêm túc nhưng cũng đơn giản hóa các thủ tục cần thiết để giấc mơ của biết bao đứa trẻ cần một gia đình, và của biết bao cặp vợ chồng mong muốn hiến thân trong tình yêu, có thể trở thành sự thật. Cách đây ít lâu, tôi có nghe chứng từ của một người, một bác sĩ – một nghề quan trọng – không có con, và ông và vợ ông quyết định nhận một đứa trẻ làm con nuôi. Và khi đến lúc, họ được đề nghị một em, và họ được cho biết: “Nhưng chúng tôi không biết sức khỏe của đứa trẻ này như thế nào. Có lẽ em có bệnh”. Và ông ta nói – Tôi đã nhìn thấy em rồi – ông nói, “Nếu cô hỏi tôi điều này trước khi đến đây, có lẽ tôi đã nói không. Nhưng tôi đã nhìn thấy đứa trẻ: Tôi sẽ đưa em đi với tôi”. Đây là niềm khao khát được làm cha nuôi, được làm mẹ nuôi. Anh chị em đừng sợ điều này.

 

Tôi cầu nguyện để không ai cảm thấy thiếu mối dây ràng buộc tình cảm cha con. Và những người chịu ảnh hưởng của cảnh mồ côi, mong họ tiến bước mà không còn cảm giác khó chịu này. Xin Thánh Giuse che chở, và giúp đỡ cho trẻ mồ côi; và xin ngài cầu bầu cho những cặp vợ chồng muốn có con. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để được điều này:

 

Lạy Thánh Giuse, ngài là người đã yêu thương Chúa Giêsu bằng tình yêu thương của người cha, xin ngài gần gũi rất nhiều trẻ em chưa có gia đình và hằng khao khát có bố có mẹ. Xin ngài hỗ trợ các cặp vợ chồng không thể sinh con, giúp họ khám phá ra, qua đau khổ này, một kế hoạch lớn hơn. 

 

Xin ngài bảo đảm để không một ai thiếu một mái ấm, một mối dây nối kết, một người để chăm sóc họ; và xin ngài chữa lành lòng ích kỷ của những người khép mình đối với sự sống, xin cho họ biết mở lòng ra đối với tình yêu.

Cảm ơn anh chị em.

Nguồn: http://vietcatholicnews.org/

_____________________________________________

Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:

Anh chị em thân mến: Tiếp tục loạt bài giáo lý của chúng ta về Thánh Giuse, hôm nay chúng ta coi phẩm giá của Thánh Giuse là cha nuôi của Chúa Giêsu, do Đức Trinh Nữ Maria sinh ra. Là chồng của Maria và là cha hợp pháp của Chúa Giêsu, thánh Giuse có tất cả các quyền của một người cha, bao gồm cả quyền đặt tên cho con. Tuy nhiên, thánh Giuse đã học được từ thiên thần rằng, trong kế hoạch của Thiên Chúa, Con của Maria được đặt tên là Giêsu, có nghĩa là “Chúa cứu”. Sự ngoan ngoãn của thánh Giuse đối với ý muốn của Thiên Chúa và sự quan tâm chăm sóc của người cha dành cho đứa trẻ Giêsu có thể dạy chúng ta nhiều điều về ý nghĩa đích thực của việc làm cha mẹ. Trở thành một người mẹ hoặc một người cha không chỉ đơn giản là một vấn đề sinh học; sâu xa hơn, nó kéo theo sự chăm lo cho cuộc sống của một gia đình. Theo nghĩa này, một trong những hình thức làm cha mẹ cao nhất là đảm nhận trách nhiệm trở thành cha mẹ nuôi, sẵn sàng chào đón một đứa trẻ mồ côi hoặc bị bỏ rơi như một phần của gia đình riêng của họ. Chúng ta hãy cầu nguyện rằng nhờ lời chuyển cầu của Thánh Giuse, những người cha trong các gia đình sẽ được ân sủng để đáp lại ơn gọi cao quý của họ, và nhiều trẻ em trên thế giới đang khao khát một ngôi nhà an toàn và yêu thương sẽ tìm thấy sự chào đón quảng đại, yêu thương từ các gia đình.

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

TOP