LOẠT BÀI GIÓA LÝ CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ VỀ THÁNH GIUSE (BÀI 1-3)

Phaolô VI
Thứ Tư, 17 tháng 11 năm 2021
____________________________
Loạt Bài Giáo lý về Thánh Giuse:
Bài 1. Thánh Giuse và môi trường nơi ngài sống
Theo tin Tòa Thánh, trong buổi yết kiến chung ngày 17 tháng 10 tại Đại sảnh Phaolô VI, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khởi đầu loạt bài giáo lý mới về Thánh Giuse. Sau đây là bài đầu tiên của ngài, dựa theo bản tiếng Ý của Tòa Thánh:
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Ngày 8 tháng 12 năm 1870, Chân phước Piô IX tuyên phong Thánh Giuse là bổn mạng của Giáo hội hoàn vũ. 150 năm sau biến cố đó, chúng ta đang trải nghiệm một năm đặc biệt dành riêng cho Thánh Giuse, và trong Tông thư Patris corde, tôi đã thu thập một số suy gẫm về con người của ngài. Chưa bao giờ như ngày hôm nay, trong thời điểm được đánh dấu bằng một cuộc khủng hoảng hoàn cầu với nhiều thành tố đa dạng, ngài có thể là chỗ dựa, niềm an ủi và người hướng dẫn. Đó là lý do tại sao tôi quyết định dành một chu kỳ giáo lý cho ngài, điều mà tôi hy vọng sẽ giúp chúng ta hơn nữa để chúng ta được soi sáng bởi gương sáng và lời chứng của ngài. Trong một vài tuần, chúng ta sẽ nói về Thánh Giuse.
Có hơn mười nhân vật trong Kinh thánh mang tên Giuse. Người quan trọng nhất trong số này là con trai của Giacóp và Raken, người, trải qua nhiều thăng trầm, từ một nô lệ trở thành người quan trọng thứ hai ở Ai Cập sau pharaô (x. St 37-50). Tên Giuse trong tiếng Do Thái có nghĩa là “Chúa làm gia tăng, Chúa làm cho nó lớn lên”. Đó là một ước muốn, một phước lành được xây dựng trên sự tin tưởng vào ơn quan phòng và đặc biệt nói đến sự sinh thành và lớn lên của trẻ em. Thật vậy, chính cái tên này đã tiết lộ cho chúng ta một khía cạnh thiết yếu trong nhân cách của Thánh Giuse thành Nadarét. Ngài là một người đầy đức tin, tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Mọi hành động của ngài được Tin Mừng thuật lại đều được thi hành với niềm tin chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ “làm cho nó lớn lên”, Thiên Chúa sẽ “gia tăng” nó, Thiên Chúa sẽ “thêm vào”, nghĩa là Thiên Chúa sẽ chu cấp để thực hiện chương trình cứu rỗi của Người. Và, trong điều này, Thánh Giuse thành Nadarét rất giống ông Giuse nước Ai Cập.
Ngay cả những tài liệu tham khảo địa lý chính có nhắc đến Thánh Giuse: Bêlem và Nadarét, cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu con người ngài.
Trong Cựu Ước, thành phố Bêlem (Bethlehem) được gọi bằng tên Beth Lechem, tức là “Nhà của bánh mì”, hay còn gọi là Épratha, theo tên bộ tộc định cư trên lãnh thổ đó. Tuy nhiên, trong tiếng Ả Rập, tên này có nghĩa là “Nhà của thịt”, có lẽ là do số lượng lớn các đàn cừu và dê trong khu vực. Thực vậy, không phải ngẫu nhiên mà khi Chúa Giêsu sinh ra, các mục đồng là những nhân chứng đầu tiên của biến cố (x. Lc 2: 8-20). Dưới ánh sáng câu chuyện về Chúa Giêsu, những ám chỉ về bánh và thịt ám chỉ mầu nhiệm Thánh Thể: Chúa Giêsu là bánh hằng sống từ trời xuống (x. Ga 6:51). Chính Người sẽ tự nói về mình: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sự sống đời đời” (Ga 6:54).
Bêlem được nhắc đến nhiều lần trong Kinh thánh, bắt đầu từ Sách Sáng thế. Câu chuyện về bà Rút và bà Naômi, được thuật lại trong Sách Rút, một sách nhỏ nhưng tuyệt vời, cũng liên quan đến Bêlem. Bà Rút sinh một người con trai tên là Ôvét, từ ông này, sinh ra Giétse, cha của Vua Đavít. Và chính từ dòng dõi của Đavít mà có Thánh Giuse, cha hợp pháp của Chúa Giêsu. Do đó, về Bêlem, tiên tri Mikha đã báo trước những điều lớn lao: ” Phần ngươi, hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen” (Mk 5: 1). Thánh sử Mátthêu sẽ tiếp nhận lời tiên tri này, ngài sẽ nối kết nó với câu chuyện về Chúa Giêsu cũng như sự ứng nghiệm hiển nhiên của nó.
Quả thật, Con Thiên Chúa không chọn Giêrusalem làm nơi nhập thể, mà là Bêlem và Nadarét, hai làng ngoại vi, cách xa tiếng ồn ào của tin tức và quyền lực thời bấy giờ. Thế mà Giêrusalem là thành phố được Chúa yêu thương (x. Is 62:1-12), là “thành thánh” (Đn 3:28), được Chúa chọn làm nơi cư ngụ (x. Dcr 3:2; Tv 132:13). Và quả thực, đây là nơi cư ngụ của các tiến sĩ Luật, kinh sư và người Pharisiêu, các thượng tế và các kỳ lão trong dân (xem Lc 2:46; Mt 15:1; Mc 3:22; Ga 1:19; Mt 26:3).
Đây là lý do tại sao sự lựa chọn Bêlem và Nadarét cho chúng ta biết rằng vùng ngoại vi và bên lề đều được Thiên Chúa ưu ái. Chúa Giêsu không sinh ra ở Giêrusalem với toàn thể triều đình… không: Người sinh ra ở vùng ngoại ô và sống cả đời mình, tới 30 năm, ở vùng ngoại vi đó, làm thợ mộc, như thánh Giuse. Đối với Chúa Giêsu, những vùng ngoại vi và những người bị gạt ra ngoài lề đều được quí mến hơn. Không coi trọng thực tại này cũng tương tự như không coi trọng Tin Mừng và công trình của Thiên Chúa, những điều tiếp tục tự biểu lộ ở các vùng ngoại vi địa lý và hiện sinh. Chúa luôn luôn hành động bí mật ở ngoại vi, cả trong linh hồn chúng ta, ở ngoại vi của linh hồn, của các cảm xúc, có lẽ cả những cảm xúc khiến chúng ta xấu hổ; nhưng Chúa ở đó để giúp chúng ta tiến về phía trước. Chúa tiếp tục tự tỏ mình ra ở các vùng ngoại vi, cả những vùng ngoại vi địa lý lẫn hiện sinh. Đặc biệt, Chúa Giêsu đi tìm những người tội lỗi, vào nhà họ, nói chuyện với họ, kêu gọi họ hoán cải. Và Người từng bị khiển trách về điều này. Thực vậy, các luật sĩ có lần nói: “Hãy xem kìa, vị Thầy này, hãy nhìn vị Thầy này: Ông ngồi ăn với những kẻ có tội, lây bẩn thỉu, đi tìm những người tuy không làm điều ác nhưng phải chịu đựng hậu quả của nó: người bệnh, người đói, người nghèo, người cùng hết. Chúa Giêsu luôn luôn đi đến các vùng ngoại vi. Và chắc chắn Người phải cho chúng ta rất nhiều tin tưởng về điều đó, vì Chúa biết vùng ngoại vi của trái tim chúng ta, vùng ngoại vi của linh hồn chúng ta, vùng ngoại vi của xã hội chúng ta, thành phố của chúng ta, gia đình của chúng ta, tức là cái phần hơi mù mờ mà chúng ta hay dấu diếm, có lẽ vì xấu hổ.
Về mặt này, xã hội lúc bấy giờ không khác xã hội của chúng ta bao nhiêu. Ngay cả ngày nay vẫn có một trung tâm và một vùng ngoại vi. Và Giáo Hội biết rằng mình được kêu gọi để loan báo tin mừng từ các vùng ngoại vi. Vốn là một thợ mộc xuất thân từ Nadarét và là người tin tưởng vào kế hoạch của Thiên Chúa dành cho vị hôn thê của ngài và cho chính ngài, Thánh Giuse nhắc nhở Giáo hội chú ý đến những gì mà thế giới cố tình phớt lờ. Hôm nay thánh Giuse dạy chúng ta điều này: “Đừng quá nhìn vào những điều thế gian ca tụng, hãy nhìn vào những góc khuất, những bóng tối, hãy nhìn những vùng ngoại vi, những gì thế gian không mong muốn”. Ngài nhắc nhở mỗi người chúng ta phải quý trọng những gì người khác vứt bỏ. Theo nghĩa này, ngài thực sự là một bậc thầy dạy những điều cốt yếu: ngài nhắc nhở chúng ta rằng những gì thực sự có giá trị không thu hút sự chú ý của chúng ta, mà đòi hỏi sự biện phân kiên nhẫn để được khám phá và trân quí. Anh chị em hãy tìm hiểu giá trị của nó. Chúng ta xin ngài cầu bầu để toàn thể Giáo hội có thể phục hồi cái nhìn này, khả năng biện phân này, khả năng đánh giá điều cốt yếu này. Chúng ta ra đi từ Bêlem, chúng ta ra đi từ Nadarét.
Hôm nay, tôi muốn gửi một thông điệp đến tất cả những người đàn ông và đàn bà đang sống ở những vùng ngoại vi địa lý bị lãng quên nhất trên thế giới hoặc những người đang sống trong hoàn cảnh bị gạt ra ngoài lề hiện sinh. Mong các bạn tìm thấy nơi Thánh Giuse một nhân chứng và một người bảo vệ để tìm đến. Chúng ta hãy hướng về ngài với lời cầu nguyện sau đây, một lời cầu nguyện “tự chế” xuất phát từ trái tim:
Lạy thánh Giuse, ngài luôn tin cậy nơi Chúa, và ngài đã lựa chọn được hướng dẫn bởi sự quan phòng của Người, xin dạy chúng con đừng phụ thuộc quá nhiều vào các dự án của mình, nhưng vào kế hoạch tình yêu của Người.
Ngài xuất phát từ vùng ngoại ô, xin giúp chúng con hoán cải cái nhìn của chúng con và thích những gì thế gian vứt bỏ và gạt sang bên lề. Xin an ủi những người cảm thấy cô đơn và hỗ trợ những người đang âm thầm dấn thân để bảo vệ sự sống và phẩm giá con người. Amen.
Bản dịch Việt ngữ: Vũ Văn An
Nguồn: vietcatholicnews.org
_____________________________________________
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến: Trong năm Thánh Giuse này, hôm nay chúng ta bắt đầu một loạt bài giáo lý mới về người thợ mộc khiêm nhường ở Nazareth, cha nuôi của hài nhi Giêsu và là bổn mạng của Giáo hội Hoàn vũ. Trong tiếng Do Thái, tên Joseph (Giuse) gợi lên quyền năng của Đức Chúa Trời để mang lại sự phát triển và cuộc sống mới. Giuse dạy chúng ta hãy tin cậy nơi sự quan phòng của Thiên Chúa một cách lặng lẽ khi làm việc trong thế giới của chúng ta. Cuộc đời của ông chủ yếu gắn liền với hai thị trấn nhỏ, Bethlehem và Nazareth, nhắc nhở chúng ta rằng tình yêu ưu đãi của Thiên Chúa dành cho người nghèo và những người bên lề cuộc sống. Thiên Chúa đã chọn Bethlehem, thành của Đavít, làm nơi Con Ngài sinh ra dưới sự chăm sóc cẩn thận của Giuse, người thuộc nhà Đavít. Bằng cuộc đời và gương sáng của mình, Thánh Giuse nhắc nhở chúng ta rằng, trong thời đại của chúng ta, Giáo hội được kêu gọi để loan báo Tin Mừng về sự tái lâm của Chúa Kitô, bắt đầu từ những vùng ngoại vi hiện sinh của thế giới chúng ta. Những người nghèo và bị lãng quên ở giữa chúng ta có thể tìm đến anh ấy như một người hướng dẫn và người bảo vệ chắc chắn trong cuộc sống của họ. Chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse cầu bầu cho Giáo hội, để chúng ta luôn có thể lên đường từ Bethlehem một lần nữa, để nhìn thấy và đánh giá đúng những gì thiết yếu trong mắt Thiên Chúa.
thánh đường Thánh Phêrô – Đại sảnh Phaolô VI
Thứ Tư, 24 tháng 11 năm 2021
____________________________
Loạt Bài Giáo lý về Thánh Giuse:
Bài 2. Thánh Giuse trong lịch sử cứu độ
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Thứ Tư tuần trước, chúng ta đã bắt đầu một chu kỳ giáo lý về Thánh Giuse – năm dành riêng kính ngài sắp kết thúc. Hôm nay chúng ta sẽ tiếp tục cuộc hành trình này, tập chú vào vai trò của ngài trong lịch sử cứu độ.
Chúa Giêsu trong các Tin Mừng được gọi là “con ông Giuse” (Lc 3:23; 4: 22; Ga 1:45; 6:42) và “con bác thợ mộc” (Mt 13:55; Mc 6: 3). Thuật lại thời thơ ấu của Chúa Giêsu, các Thánh sử Mátthêu và Luca dành chỗ nói về vai trò của Thánh Giuse. Cả hai thánh sử đều thu thập một “gia phả” nhằm làm nổi bật tính lịch sử của Chúa Giêsu. Ngỏ lời trước hết với những người theo Kitô giáo gốc Do Thái, Thánh Mátthêu bắt đầu từ Ápraham và kết thúc ở Thánh Giuse, được xác định là “chồng của bà Maria, là người mà từ ngài Chúa Giêsu đã sinh ra, Đấng được gọi là Kitô” (1:16). Thánh Luca, mặt khác, đã ngược trở lại tới tận Ađam, bắt đầu trực tiếp với Chúa Giêsu, Đấng “là con trai của Giuse”, nhưng nói rõ hơn: “thiên hạ vốn coi” như thế (3:23). Do đó, cả hai Thánh sử đều trình bầy Thánh Giuse không như cha đẻ, nhưng dù sao, hoàn toàn là cha của Chúa Giêsu. Qua thánh nhân, Chúa Giêsu hoàn thành lịch sử giao ước và cứu rỗi giữa Thiên Chúa và loài người. Đối với Thánh Mátthêu, lịch sử này bắt đầu với Ápraham; đối với thánh Luca, lịch sử này bắt đầu với nguồn gốc loài người, nghĩa là, với Ađam.
Thánh sử Mátthêu giúp chúng ta hiểu rằng con người của Thánh Giuse, tuy bề ngoài có vẻ ở ngoài lề, kín đáo và ở hậu trường, nhưng thật ra là một yếu tố trung tâm trong lịch sử cứu độ. Thánh Giuse sống vai trò của mình mà không bao giờ tìm cách chiếm lãnh khung cảnh. Nếu chúng ta suy nghĩ thì hẳn thấy, “Cuộc sống của chúng ta được dệt nên và duy trì bởi những người bình thường, những người thường bị bỏ qua. Những người không xuất hiện trên hàng tít lớn của báo chí và tập san. … Có biết bao nhiêu người cha, người mẹ, ông bà và thầy cô đang chỉ cho con cái chúng ta, bằng những cách nhỏ nhặt và hàng ngày, biết cách chấp nhận và xử lý cuộc khủng hoảng bằng cách điều chỉnh các thông lệ, nhìn về phía trước và khuyến khích việc thực hành cầu nguyện. Biết bao người đang cầu nguyện, hy sinh và cầu bầu cho thiện ích của mọi người ”(Tông thư Patris corde, 1). Như thế, ai cũng có thể tìm thấy nơi Thánh Cả Giuse, con người không ai lưu ý, con người hiện diện hằng ngày, hiện diện kín đáo và giấu ẩn, một vị cầu thay nguyện giúp, một vị nâng đỡ và hướng dẫn trong những lúc khó khăn. Ngài nhắc nhở chúng ta rằng tất cả những người xem ra bị che giấu hoặc ở “hàng ghế thứ hai” đều là những nhân vật chủ đạo vô song trong lịch sử cứu độ. Thế giới cần những người đàn ông và đàn bà này: những người đàn ông và đàn bà ở hàng ghế thứ hai, nhưng là những người hỗ trợ sự phát triển cuộc sống của chúng ta, của mọi người trong chúng ta, và là những người, bằng việc cầu nguyện và bằng gương sáng của họ, bằng sự dạy dỗ của họ, đang nâng đỡ chúng ta trên nẻo đường cuộc sống.
Trong Tin Mừng thánh Luca, thánh Giuse xuất hiện như là người bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Maria. Và vì lý do này, ngài cũng là “Người bảo vệ Giáo Hội”: nhưng, nếu ngài là người bảo vệ Chúa Giêsu và Đức Maria, ngài vẫn làm việc, dù nay ngài đang ở trên trời, và vẫn tiếp tục là người bảo vệ, trong trường hợp này là bảo vệ Giáo hội, vì Giáo hội là sự nối dài của Nhiệm thể Chúa Kitô trong lịch sử, ngay cả tình mẫu tử của Đức Maria cũng được phản ảnh trong tình mẫu tử của Giáo hội. Trong việc tiếp tục bảo vệ Giáo hội, xin anh chị em đừng quên điều này: ngày nay, Thánh Giuse vẫn đang bảo vệ Giáo hội, và bằng cách tiếp tục bảo vệ Giáo hội, ngài tiếp tục bảo vệ cả con lẫn mẹ của con”(sđd, 5). Khía cạnh này trong vai trò bảo vệ của Thánh Giuse là câu trả lời tuyệt vời cho câu chuyện của sách Sáng thế. Khi Thiên Chúa yêu cầu Cain giải trình về mạng sống của Abel, anh ta trả lời: ” Con là người giữ em con hay sao?” (4: 9). Với cuộc đời của mình, dường như thánh Giuse muốn nói với chúng ta rằng chúng ta luôn được mời gọi cảm nhận rằng chúng ta là người canh giữ anh chị em của chúng ta, những người bảo vệ những người thân cận với chúng ta, những người mà Chúa đã trao phó cho chúng ta trong nhiều hoàn cảnh của đời sống.
Một xã hội như xã hội của chúng ta, vốn được định nghĩa là “lỏng”, dường như nó không có tính nhất quán… Tôi xin điều chỉnh nhà triết học đã đưa ra câu định nghĩa này bằng cách nói rằng: hơn cả lỏng, nó là khí, một xã hội khí đúng nghĩa. Cái xã hội lỏng và khí này tìm thấy nơi câu chuyện của Thánh Giuse một dấu chỉ rất rõ ràng về tầm quan trọng của mối liên hệ giữa con người với nhau. Thật vậy, Tin Mừng cho chúng ta biết gia phả của Chúa Giêsu, không những chỉ vì lý do thần học, mà còn để nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng cuộc sống của chúng ta được tạo nên bởi những mối dây liên kết đến trước và đồng hành với chúng ta. Con Thiên Chúa đã chọn đến thế gian bằng con đường của những ràng buộc như vậy, con đường của lịch sử: Người không xuống thế gian bằng ma thuật, không. Người đã đi theo con đường lịch sử mà tất cả chúng ta đều đi.
Anh chị em thân mến, tôi nghĩ đến rất nhiều người khó tìm thấy mối dây liên kết có ý nghĩa trong cuộc sống của họ, và vì điều này mà họ lao đao, cảm thấy đơn độc, thiếu sức mạnh và dũng khí để tiếp tục bước đi. Tôi muốn kết thúc bằng một lời cầu nguyện để giúp họ, và tất cả chúng ta, tìm thấy nơi Thánh Giuse một đồng minh, một người bạn và một chỗ dựa.
Lạy Thánh Giuse, ngài là người đã bảo vệ mối liên hệ với Đức Maria và Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết quan tâm đến các mối liên hệ trong cuộc sống của chúng con.
Xin cho không một ai phải trải nghiệm cảm giác bị bỏ rơi vì cô đơn.
Xin cho mỗi người chúng con được hòa giải với lịch sử của chính chúng con, với những người đã đi trước, và nhận ra cả trong các sai lầm đã mắc phải một con đường qua đó Chúa Quan phòng đã mở ra, và cái ác không có lời quyết định cuối cùng.
Xin ngài tỏ mình là bạn của những người đang lao đao nhất, và như ngài từng nâng đỡ Đức Maria và Chúa Giêsu trong những lúc khó khăn, Xin nâng đỡ chúng con trong cuộc lữ hành của chúng con. Amen.
Bản dịch Việt ngữ: Vũ Văn An
Nguồn: vietcatholicnews.org
_____________________________________________
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến: Trong loạt bài giáo lý về Thánh Giuse, hôm nay chúng ta xem xét vai trò quan trọng của ngài trong lịch sử cứu độ. Gia phả trong các Tin Mừng Matthêu và Luca trình bày Chúa Giêsu là “con ông Giuse” (Lc 3,23), và khẳng định rằng, tuy không phải là cha ruột của mình, nhưng Thánh Giuse vẫn thực hiện vai trò làm cha thực sự đối với mình. Matthêu cho thấy rằng Giuse, mặc dù là một nhân vật có vẻ ngoài lề, trên thực tế là trung tâm của việc mở ra lịch sử cứu rỗi và việc thực hiện các lời hứa của Thiên Chúa. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta cũng được kêu gọi đóng một vai trò nhỏ bé của mình trong việc truyền bá sứ điệp cứu độ của Tin Mừng. Luca miêu tả Giuse là người bảo vệ Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Ông cũng đảm nhận vai trò này với tư cách là Người bảo vệ Giáo hội Hoàn vũ, sự tiếp nối của Thân thể Chúa Kitô trong lịch sử. Gia phả của Giuse cũng nhắc nhở thế giới thường bị rạn nứt của chúng ta về tầm quan trọng của mối quan hệ nhân loại đi trước và theo sau chúng ta. Khi tìm cách củng cố những mối quan hệ đó và bảo vệ những anh chị em dễ bị tổn thương của mình thông qua các công việc bác ái huynh đệ, chúng ta hãy tin tưởng vào lời cầu nguyện của Giuse và noi gương vai trò khiêm nhường và trung thành của ngài trong kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.
Phaolô VI
Thứ Tư, 1 tháng 12 năm 2021
____________________________
Loạt Bài Giáo lý về Thánh Giuse:
Bài 3. Thánh Giuse: người công chính và là chồng của Đức Maria
Anh chị em thân mến,
chào anh chị em buổi sáng!
Chúng ta hãy tiếp tục cuộc hành trình suy tư của chúng ta về con người của Thánh Cả Giuse. Hôm nay, tôi muốn đào sâu thêm về việc ngài là “người công chính” và là “người phối ngẫu đã hứa hôn của Đức Maria”, và do đó cung cấp một thông điệp cho mọi cặp đính hôn và cả những cặp mới cưới nhau. Nhiều biến cố liên quan đến Thánh Giuse đã trám đầy các câu chuyện ngụy thư, tức các sách Tin Mừng không có trong qui điển, nhưng vẫn đã gây ảnh hưởng đến nghệ thuật và những nơi thờ phượng khác nhau. Những trước tác không có trong Kinh thánh này là những câu chuyện do lòng đạo đức Kitô giáo cung cấp vào thời điểm đó và là lời đáp lại mong muốn lấp đầy chỗ trống trong các bản văn Tin mừng qui điển, những bản văn có trong Kinh thánh, cung cấp cho anh chị mọi điều chủ yếu về đức tin và đời sống Kitô giáo.
Thánh sử Mátthêu – đây là điều quan trọng. Tin Mừng nói gì về thánh Giuse? Không phải những gì các sách Tin Mừng ngụy thư này nói đều là điều gì đó xấu xí hay xấu xa, không! Chúng đẹp lắm, nhưng chúng không phải là Lời Chúa. Thay vào đó, các sách Tin Mừng trong Kinh thánh là Lời của Thiên Chúa. Trong số này, thánh sử Mátthêu định nghĩa thánh Giuse là một người “công chính”. Chúng ta hãy lắng nghe lời tường thuật của ngài: “Sau đây là gốc tích Đức Giêsu Kitô : bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (1: 18-19). Vì những người đã đính hôn, khi vị hôn thê không chung thủy, hoặc có thai, họ có thể buộc tội cô ấy! Họ phải làm thế. Và người phụ nữ sau đó bị ném đá. Nhưng Thánh Giuse là người công chính. Ngài nói: “Không, tôi sẽ không làm điều này. Tôi sẽ ra đi lặng lẽ”.
Để hiểu cách cư xử của Thánh Giuse đối với Đức Maria, điều hữu ích là nhớ các phong tục hôn nhân của dân Israel xưa. Hôn nhân bao gồm hai giai đoạn được xác định rõ ràng. Giai đoạn đầu tiên giống như cuộc đính hôn chính thức đã ngụ ý một tình huống mới. Đặc biệt, trong khi tiếp tục sống ở nhà cha mẹ thêm một năm nữa, người phụ nữ trên thực tế đã được coi là “vợ” của người bạn đời đã hứa hôn của mình rồi. Họ chưa sống với nhau, nhưng giống như cô ấy đã là vợ của một ai đó rồi. Giai đoạn thứ hai là chuyển cô dâu từ nhà cha mẹ sang nhà của người phối ngẫu. Điều này diễn ra với một đám rước lễ hội kết thúc đám cưới. Và những người bạn của cô dâu đã tháp tùng cô đến đó. Trên cơ sở các phong tục này, sự kiện “trước khi họ về chung sống với nhau, người ta đã phát hiện ra Đức Maria có thai” khiến Đức Trinh nữ bị buộc tội ngoại tình. Và, theo Luật cổ xưa, tội của bà phải chịu hình phạt bằng cách bị ném đá (x. Đnl 22: 20-21). Tuy nhiên, một cách giải thích ôn hòa hơn đã được áp dụng sau điều này trong thực hành của người Do Thái sau này vốn chỉ áp đặt hành vi rẫy bỏ với các hậu quả dân sự và hình sự đối với người phụ nữ, chứ không bị ném đá nữa.
Tin Mừng nói rằng Thánh Giuse là người “công chính” vì ngài phải tuân theo luật pháp như bất cứ người Israel ngoan đạo nào khác. Nhưng bên trong ngài, tình yêu của ngài dành cho Đức Maria và sự tin tưởng của ngài đặt nơi Đức Maria đã đề ra một cách ngài vừa có thể tuân thủ lề luật vừa cứu được danh dự của cô dâu mình. Ngài quyết định bỏ cô một cách bí mật, không gây ồn ào, không khiến cô phải chịu sự sỉ nhục trước công chúng. Ngài đã chọn con đường bảo mật, không đưa ra tòa xét xử hay trả đũa. Thánh Giuse thánh thiện biết bao! Còn chúng ta, ngay khi chúng ta có một chút chuyện tầm phào, một điều gì đó tai tiếng về người khác, chúng ta sẽ bàn tán về nó ngay lập tức! Thánh Giuse thì im lặng. Ngài im lặng.
Nhưng thánh sử Mátthêu nói thêm ngay lập tức: “Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : ‘Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ’”(1: 20.21). Tiếng nói của Thiên Chúa can thiệp vào sự biện phân của Thánh Giuse. Trong một giấc mơ, Người mạc khải một ý nghĩa lớn hơn sự công chính của thánh nhân. Quan trọng xiết bao đối với mỗi người trong chúng ta là vun đắp một cuộc sống công chính, đồng thời, luôn cảm thấy cần sự giúp đỡ của Thiên Chúa để mở rộng tầm nhìn của chúng ta và suy xét các hoàn cảnh của cuộc sống từ một quan điểm luôn khác, rộng lớn hơn. Nhiều lần, chúng ta cảm thấy bị giam cầm bởi những gì đã xảy ra với mình: “Nhưng hãy nhìn xem điều gì đã xảy ra với tôi!” – và chúng ta mãi bị giam cầm trong điều tồi tệ đã xảy ra với chúng ta. Nhưng một cách đặc biệt, trước một số hoàn cảnh trong cuộc sống ban đầu có vẻ bi thảm, nhưng một ơn Quan phòng giấu ẩn sẽ thành hình theo thời gian và soi sáng ý nghĩa cho cả nỗi đau của chúng ta. Cơn cám dỗ là khép mình vào nỗi đau đó, cứ nghĩ rằng những điều tốt đẹp không bao giờ xảy ra với chúng ta. Và điều này không tốt cho chúng ta. Điều này dẫn anh chị em đến buồn bã và cay đắng. Trái tim cay đắng thật là xấu xí.
Tôi muốn chúng ta dừng lại để suy gẫm về một chi tiết của câu chuyện này được kể lại trong Tin Mừng mà thường chúng ta hay bỏ qua. Đức Maria và Thánh Giuse đã đính hôn với nhau. Có lẽ các ngài đã nuôi dưỡng những ước mơ và kỳ vọng về cuộc sống và tương lai của các ngài. Thật bất ngờ, Thiên Chúa dường như đã tự chen mình vào cuộc sống của các ngài và, dường như thoạt đầu các ngài khó mở lòng mình ra đón nhận thực tại đang đặt ra trước mặt các ngài.
Anh chị em thân mến, cuộc sống của chúng ta thường không như những gì chúng ta tưởng tượng. Nhất là trong các liên hệ yêu đương, khó có thể chuyển từ luận lý si tình sang luận lý tình yêu trưởng thành. Chúng ta cần chuyển từ mê đắm sang tình yêu trưởng thành. Anh chị em mới cưới nhau, anh chị em hãy nghĩ tới điều đó. Giai đoạn đầu tiên luôn được đánh dấu bằng một sự mê hoặc nào đó khiến chúng ta sống chìm đắm trong tưởng tượng thường không dựa trên thực tại và sự kiện, đây là giai đoạn si tình. Nhưng chính lúc si tình với những hoài mong dường như kết liễu, đó là lúc tình yêu đích thực bắt đầu hoặc tình yêu đích thực bước vào đó. Thực vậy, yêu không phải là kỳ vọng rằng người kia, hay cuộc sống kia, phải tương ứng với trí tưởng tượng của chúng ta. Đúng hơn, nó có nghĩa là hoàn toàn tự do lựa chọn để lãnh trách nhiệm cho cuộc sống mình khi nó xảy ra. Đó là lý do tại sao Thánh Giuse cho chúng ta một bài học quan trọng. Ngài chọn Đức Maria với “đôi mắt mở rộng của ngài”. Chúng ta có thể nói “với mọi rủi ro”. Anh chị em hãy suy nghĩ về điều này: trong Tin Mừng Thánh Gioan, một lời khiển trách mà các tiến sĩ luật ngỏ với Chúa Giêsu là: “chúng tôi đâu phải là con cái từ đó”, ám chỉ mãi dâm. Họ biết Đức Maria mang thai như thế nào và họ muốn bôi bẩn lên mẹ của Chúa Giêsu. Đối với tôi, đây là đoạn tồi tệ nhất, ma quỷ nhất, trong Tin Mừng. Và rủi ro của Thánh Giuse cho chúng ta bài học này: hãy đón nhận cuộc sống như nó xẩy đến. Chúa có can thiệp vào đó không? Tôi chấp nhận điều đó. Và Thánh Giuse thực hiện những gì sứ thần của Chúa đã ra lệnh: “ông đón vợ về nhà. Nhưng không ăn ở với bà”, bà đang mang thai con trai khi chưa chung sống với nhau, “cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ là Giêsu” (Mt 1,24-25). Các cặp đính hôn Kitô hữu được kêu gọi làm chứng cho một tình yêu như thế, phải có can đảm chuyển từ luận lý si tình sang luận lý của tình yêu trưởng thành. Đây là một sự lựa chọn đầy đòi hỏi, nhưng thay vì giam cầm cuộc sống, nó có thể củng cố tình yêu để tình yêu bền vững khi đối đầu với các thử thách của thời gian. Tình yêu lứa đôi tiến triển trong cuộc sống và trưởng thành hàng ngày. Tình yêu trong thời gian đính hôn có một chút – cho phép tôi sử dụng chữ này – một chút lãng mạn. Anh chị em đều đã trải qua điều này, nhưng rồi tình yêu trưởng thành bắt đầu, tình yêu sống mỗi ngày, từ việc làm, từ những đứa con sẽ đến… Và đôi khi tính lãng mạn đó biến mất một chút, phải không? Nhưng há đó không phải là tình yêu sao? Có, nhưng là tình yêu trưởng thành. “Nhưng Cha biết không, thưa Cha, đôi khi chúng con đánh nhau…” Điều này đã xảy ra từ thời ông Ađam và bà Evà cho đến ngày nay, đúng không! Vợ chồng đánh nhau là chuyện cơm bữa của chúng ta, đúng không! “Nhưng há chúng con không nên đánh nhau sao?” Có, có, anh chị em phải. Nó xảy ra. Tôi không nói anh chị em nên đánh nhau, nhưng nó sẽ xảy ra. “Và, thưa Cha, đôi khi chúng con lớn tiếng…” Điều đó cũng xảy ra. “Và thậm chí có những lúc đĩa bay”. Nó sẽ xảy ra. Nhưng có thể làm gì để điều này không làm tổn hại đến đời sống hôn nhân? Hãy nghe tôi nói: đừng bao giờ kết thúc một ngày mà không làm hòa với nhau. “Chúng mình đã đánh nhau. Chúa ơi, anh đã nói những lời tồi tệ. Anh đã nói những điều khủng khiếp. Nhưng bây giờ, để kết thúc một ngày, anh phải làm hòa ”. Anh chị em biết tại sao không? Vì chiến tranh lạnh vào ngày hôm sau rất nguy hiểm. Đừng để chiến tranh bắt đầu vào ngày hôm sau. Vì vậy, hãy làm hòa trước khi đi ngủ. “Nhưng, thưa Cha, Cha biết đấy, con không biết phải nói năng ra sao để làm hòa sau một tình huống khủng khiếp mà chúng con đã trải qua”. Rất dễ. Làm điều này (Đức Giáo Hoàng vuốt ve má của mình) thì hòa bình sẽ được lặp lại. Hãy luôn nhớ điều này. Hãy luôn nhớ rằng: không bao giờ kết thúc một ngày mà không làm hòa với nhau. Và điều này sẽ giúp ích cho anh chị em trong cuộc sống hôn nhân. Cho họ và cho tất cả các cặp vợ chồng đang ở đây. Sự chuyển dịch từ si tình qua tình yêu trưởng thành này là một sự lựa chọn đầy đòi hỏi, nhưng chúng ta phải chọn con đường đó.
Lần này cũng vậy, chúng ta hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện với Thánh Giuse.
Lạy Thánh Giuse, Ngài đã tự do yêu thương Đức Maria, và chọn từ bỏ những tưởng tượng của mình để nhường chỗ cho thực tại, xin ngài giúp mỗi người chúng con biết ngạc nhiên trước Thiên Chúa và chấp nhận cuộc sống không phải như một điều không lường trước được để tự bảo vệ mình, nhưng như một mầu nhiệm che giấu bí quyết của niềm vui đích thực.
Xin ngài cầu bầu cùng Chúa ban niềm vui và tính triệt để cho mọi Kitô hữu đính hôn, trong khi luôn ý thức rằng chỉ có lòng thương xót và sự tha thứ mới làm cho tình yêu trở nên khả hữu. Amen.
Cảm ơn anh chị em.
Bản dịch Việt ngữ: Vũ Văn An
Nguồn: vietcatholicnews.org
_____________________________________________
Tóm tắt những lời của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến: Trong loạt bài giáo lý của chúng ta về Thánh Giuse, hôm nay chúng ta suy ngẫm về sự mô tả của Thánh Mátthêu về Thánh Giuse vừa là “người công chính” vừa là “chồng của Đức Maria”. Là một người con sùng đạo của Israel, Giuse sẵn lòng tuân theo các yêu cầu của Luật pháp và các giới luật liên quan đến hôn nhân. Khi biết rằng Maria đã có con, vì tình yêu và sự quan tâm đối với cô ấy, Giuse đã tìm cách giải thoát cho cô ấy sự sỉ nhục của cuộc chia ly công khai. Sau đó, trong một giấc mơ, Giuse biết được từ một thiên thần rằng ông nên kết hôn với Maria là đúng, vì bà đã thụ thai con trai mình bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhờ sự quan phòng của Thiên Chúa, Giuse đã hiểu sâu hơn về công lý thiêng liêng và những đòi hỏi đích thực của nó. Sự cởi mở của Giuse và Maria đối với kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa khiến tình yêu của họ trưởng thành, thể hiện qua các đức tính khiết tịnh, trung thành, tôn trọng và khiêm nhường. Không hề hạn chế sự tự do của chúng ta, những đức tính này trên thực tế mang lại cho chúng ta định hướng và sự bền bỉ trong tình yêu. Theo nghĩa này, Thánh Giuse và Mẹ Maria có thể làm gương không chỉ cho những người trẻ đã đính hôn, mà còn cho tất cả chúng ta, những người đang ở giữa những thử thách không thể tránh khỏi của cuộc sống, được mời gọi khám phá niềm vui và tự do đích thực đến từ tin cậy vào sự quan tâm công bình và quan phòng của Thiên Chúa đối với cuộc sống của chúng ta.